Trang

Thứ Ba, 25 tháng 2, 2014

TRANH DÂN GIAN ĐÔNG HỒ & GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT ĐỘC ĐÁO


Đàn lợn âm dương


Treo tranh trong ngày tết đã trở thành một thú chơi tao nhã, một phong tục đẹp của người nông dân Việt Nam xưa, cứ mỗi dịp Tết Nguyên đán, các gia đình dù giàu hay nghèo, ngoài bánh chưng, thịt mỡ dưa hành cũng không thể thiếu câu đối đỏ cùng những bức tranh tết. Những bức tranh dân gian màu sắc tươi tắn được dán lên tường nhà cho không khí thêm phần rộn rã, ấm cúng. Trong các loại tranh chơi tết của vùng châu thổ Bắc Bộ, bên cạnh những dòng tranh như Kim Hoàng ở Hà Tây, Hàng Trống ở Hà Nội, có lẽ tranh dân gian Đông Hồ là điển hình hơn cả. Tranh dân gian Đông Hồ hay nói đầy đủ hơn là tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ ra đời từ khoảng thế kỷ XVII, tại làng Đông Hồ tỉnh Bắc Ninh, một vùng đất trù phú, nông nghiệp phát triển, đời sống văn hoá cao… tất cả tạo thành cái nôi cho một dòng tranh chân quê, đậm đà chất dân tộc. Mang trong mình những nét tinh túy riêng với những giá trị văn hóa to lớn. Tranh tết Đông Hồ không phải là sự minh họa về ngày tết mà thông qua nội dung của các bức tranh này là sự gửi gắm, là lời chúc phúc cho những gì tốt đẹp nhất cho một năm mới, một năm phát tài, phát lộc, bằng những hình ảnh biểu tượng dân dã, gần gũi nhưng lại chứa đựng những thông điệp ẩn ngữ đầy tính nhân văn. Với sự phong phú, đa dạng cả về mẫu mã, thể loại, chủ đề, tranh dân gian Đông Hồ phản ánh hầu như tất cả những gì diễn ra trong đời sống bình dị của người lao động như: Chăn trâu thổi sáo, Hứng dừa, Đấu vật, Đánh ghen... cho tới những ước mơ, khát vọng cuộc sống tốt đẹp hơn như Lễ trí, Nhân Nghĩa, Vinh hoa, Phú Quý, Lợn đàn, Gà đàn... Cái hấp dẫn của tranh dân gian Đông Hồ là không chỉ đề cập cuộc sống: thóc đầy bồ, gà đầy sân, ước mong vinh hoa phú quý mà còn đề cập đến cuộc sống lứa đôi, vợ chồng với cái nhìn hóm hỉnh mà sâu sắc. Tranh dân gian Đông Hồ càng xem càng cảm nhận thấy ý nghĩa văn hóa sâu sắc, chứa đựng những ẩn ý, nhắc nhở, răn dạy chi tiết, đầy đủ về mọi sự đúng sai, phải trái ở đời, mang đậm một cái nhìn lạc quan, trìu mến và tha thiết đối với cuộc sống. 



Đấu vật


                                                             Đám cưới chuột
Chất liệu, Mầu sắc
Nét độc đáo đầu tiên thu hút người xem của Tranh dân gian Đông Hồ chính là màu sắc và chất liệu giấy in. Giấy dùng in tranh là loại giấy dó (làm từ vỏ cây dó) với đặc tính xốp, mềm, mỏng, dai, dễ hút màu mà khi in không bị nhòe. Loại giấy này được quét lên một lớp hồ điệp để tạo nét sáng óng ánh đặc thù: người ta nghiền nát vỏ con điệp, một loại sò vỏ mỏng ở biển, trộn với hồ (hồ được nấu từ bột gạo tẻ, hoặc gạo nếp, có khi nấu bằng bột sắn) rồi dùng chổi lá thông quét lên mặt giấy dó. Chổi lá thông tạo nên những nét ganh chạy theo đường quét, và vỏ điệp tự nhiên cho màu trắng với ánh lấp lánh của những mảnh điệp nhỏ dưới ánh sáng. Có thể nói trong tranh dân gian Đông Hồ, chỉ nguyên sự óng ả của nền điệp cũng đủ sự hấp dẫn, nếu điệp lại được lướt thêm một nước hòe, màu in lại được thay đổi màu một lần nữa, ngả sang màu óng ánh như màu tơ tằm, các màu hòa quện với nhau tạo thành các màu kỳ diệu. Bên cạnh đó, màu in cũng là một nét độc đáo trong quá trình sáng tạo, khám phá, tìm tòi và ứng dụng các nguyên vật liệu gần gũi từ tự nhiên vào hoạt động nghệ thuật (Màu đen lấy từ than xoan hay than lá tre; Màu vàng lấy từ hoa hòe; Màu đỏ lấy từ sỏi non, gỗ vang; Màu xanh từ lá chàm, gỉ đồng... ) điều này phản ánh cuộc sống và tâm hồn gần gũi với thiên nhiên của con người Việt Nam. Cách pha chế màu cũng tùy thuộc vào điều kiện thời tiết, chất giấy... Đây là kinh nghiệm, sự sáng tạo, thậm chí còn là bí quyết gia truyền của mỗi nghệ nhân. Chính nhờ sự cầu kỳ, cẩn thận trong cách chế màu mà tranh Đông Hồ luôn tươi sáng, rực rỡ và không bị bay màu. Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong - Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp. Với 3 màu nền; trắng điệp, vàng hòe và đỏ vang hòa quyện với bảng màu, tranh dân gian Đông Hồ được bổ sung thêm các màu đen than lá tre, nâu sỏi, xanh chàm, cộng với màu rỉ đồng, đỏ gấc, vàng thỏ tía... kết hợp cùng kỹ thuật pha trộn, đặc hay loãng; kỹ thuật in chồng màu những màu đó được chắt lọc, khi đưa vào tranh tạo các hòa sắc rất đẹp Màu khoáng tự nhiên làm cho các hạt màu tạo nên sắc tố có tính thuận mắt, phù hợp với đời sống nông nghiệp của người nông dân Việt Nam. Chính sự tương phản của các sắc tố, sự độc đáo trong sử dụng chất liệu làm cho tranh đạt một giá trị thẩm mỹ độc đáo và khác biệt với các dòng tranh khác. Cách sử dụng màu sắc của tranh dân gian Đông Hồ còn chứa đựng giá trị biểu trưng mang tính triết lý của học thuyết ngũ hành: như màu trắng ứng với hành kim, màu xanh ứng với hành mộc, màu đen ứng với hành thủy, màu đỏ ứng với hành hỏa, màu vàng ứng với hành thổ. Theo quan niệm của nghệ nhân Đông Hồ, tiếp thu quan niệm triết học phương Đông: "màu xanh tượng trưng cho sự sống, sinh sôi; là màu của mùa xuân, màu hợp với ánh mắt nhìn"; "màu đỏ tượng trưng cho lửa, nhiệt nóng, màu của mùa hạ". Màu vàng thuộc hành thổ, là màu của đất, tượng trưng cho mẹ của thiên nhiên... Cho nên, trong các tranh Đông Hồ thường thấy xử lý màu vàng làm nền cho mặt tranh, có ý nghĩa quan trọng trong tổng hòa quan hệ của bức tranh. Ví dụ trong tranh Ngũ hổ, hình tượng 5 chú hổ bố trí bốn con 4 góc, còn chú hổ còn lại được bố trí ngay chính giữa tranh, được xử lý bằng gam màu vàng, tượng trưng cho mẹ của muôn loài. 4 chú hổ xung quanh bố trí 4 màu tượng trưng cho 4 hành theo chiều tương khắc ngược kim đồng hồ. Màu trắng trong tranh Đông Hồ thường được các nghệ nhân khai thác từ độ lấp lánh của vỏ sò trộn với bột hồ tạo nên trên mặt tranh, tạo hiệu quả đặc biệt, mang tính đặc trưng của dòng tranh. Tranh dân gian Việt Nam khác với tranh của Nhật Bản bởi lối dùng mảng màu nguyên mang tính đối lập in trên thớ điệp, giấy in tranh đồng thời là màu nền của tranh, với những màu tươi vui rực rỡ làm làm nên bảng màu trong tranh dân gian Đông Hồ vừa đằm thắm vừa có được cái hồn của dân tộc, một nhà văn đã miêu tả như sau: "tranh gà, tranh lợn đỏ như xôi gấc, vàng như màu lúa chín, xanh như lá mạ hay vàng như nghệ kho cá, xanh như cốm non, đỏ như ngô già, nâu như đất cày, toàn những màu sắc thân mến từ bao đời rồi, những màu sắc ấy đã in vào tâm trí người nông dân từ thế hệ này đến thế hệ khác thành những màu sắc dân tộc". 



Hứng dừa


Phú quý



Vinh hoa

Bố cục, mảng, nét, hòa sắc
Về bố cục: Nếu phối cảnh không gian xa gần của hội họa phương Tây đã tạo ra lối bố cục tuân thủ quy luật thị giác thì ở tranh dân gian Đông Hồ các nghệ nhân đã dùng phối cảnh ước lệ Phương Đông làm cơ sở để tạo ra lối bố cục không gian tượng trưng và khái quát, chắt lọc về đường nét, về màu sắc. Bố cục của tranh thường được thể hiện đầy đủ, trọn vẹn theo lối vẽ đơn tuyến bình đồ, do đó xem tranh dân gian Đông Hồ ta thường bắt gặp cái thú vị ở những nét ngây ngô, đơn giản nhưng hợp lý hợp tình. Một nét độc đáo nữa trong tranh dân gian Đông Hồ, đó là bên cạnh các hình thể, trong tranh thường có chữ đề thơ, mảng chữ là một phần tạo nên sự chặt chẽ và hoàn chỉnh trong bố cục không gian của tranh bên cạnh việc thể hiện rõ ý tưởng về nội dung. Nét chữ cũng là nét vẽ trong tranh, hài hòa, ăn ý với nét vẽ ở các hình thể khác. Bởi vậy trong tranh dân gian Đông Hồ, với chỉ vài nhân vật được tạo hình một cách đơn giản, không gian mang tính ước lệ cùng những chữ đề thơ nhưng người xem vẫn cảm nhận thấy hết ý vị của tranh, dễ dàng nắm bắt được ý nghĩa cũng như tư tưởng mà người nghệ nhân muốn truyền đạt. Ta có thể thấy, trong tranh Đánh ghen, nghệ nhân sử dụng phối cảnh ước lệ "đơn tuyến bình đồ" tạo ra bố cục không gian tượng trưng và khái quát, cách tạo hình nhân vật mang yếu tố biếm họa, thể hiện ở sự cường điệu hóa các hình thể và đường nét trong tranh, tạo nên sự sôi động, nhưng không kém phần hài hước, vui nhộn trước một tình huống bi kịch gia đình. Các hình ảnh được khắc họa một cách chắt lọc về đường nét; tỉ lệ hình ước lệ theo một sự hợp lý của bản năng nghệ thuật và cảm thức trong sáng, hồn hậu, dí dỏm. Trong tranh là hình ảnh người vợ cả dữ tợn, cầm kéo xông vào cô vợ trẻ đang thách thức chìa tóc ra, vênh váo, còn anh chồng lấy thân hình của mình che chắn cho người vợ bé trước đường tiến của vợ cả, tay trái ôm lấy bờ vai trần, lòng bàn tay vẫn không rời khỏi "bầu ngọc" của nàng, tay phải đưa ra phía trước nửa như chống đỡ, nửa như phân trần, vừa như van nài được thể hiện rõ ý qua 2 câu thơ đề phía trên: “Thôi thôi bớt giận làm lành - Chi đừng sinh sự, hại mình nhục ta” . Bên cạnh hình tượng các nhân vật và không gian ước lệ được hình tượng hóa gia cảnh của các nhân vật bằng các mảng tường hoa, bình phong... khiến người xem cảm nhận được cái dư vị bi hài muôn thuở của đời sống "chồng chung vợ chạ” thường xảy ra trong các gia đình giàu, có của ăn của để. Thưởng thức bức tranh Đàn lợn âm dương nhìn một cách tổng thể, đây là một bố cục hình chữ nhật được đặt trong khung hình chữ nhật. Bức tranh diễn tả lợn mẹ và đàn lợn con trông thật sinh động, các nét cong của mông, lưng và đầu lợn con trông mềm mại và nhịp nhàng song không làm mất đi hình mảng cơ bản của nó. Để tăng thêm sự hài hòa, cân bằng của đường nét, trên mình lợn được điểm xuyết bởi các vòng xoáy âm dương, vừa khiến các mảng đỡ đặc, vừa thể hiện tính hài hòa trong trang trí. Những con lợn trong tranh không giống lợn thực, những đặc điểm của mắt, mũi, miệng, tai, lưng được nghệ nhân khai thác triệt để và cường điệu hóa trong cách nhìn trang trí. Đặc biệt sự sắp xếp các con lợn quây quần bên nhau, giữa đàn lợn con và lợn mẹ hoà vào nhau tạo ra một bố cục chặt chẽ, thể hiện rõ chủ đề "chúc tụng" của tranh, chúc cho sự sinh sôi nảy nở, con cháu đầy đàn. Về mảng, nét và phối màu: Trong tranh dân gian Đông Hồ, nét là một phần cực kỳ quan trọng, quyết định đến vẻ đẹp cũng như nội dung của tranh, đó là nét thực, nét tạo nên hình mảng trong tranh. Nét khoanh lấy các mảng màu giữ cho màu đằm trên giấy, nét tạo nên sự nhất quán giữa hình và mảng, diễn tả được tình cảm, tính cách nhân vật bằng những nét viền to nhỏ đậm đà, dứt khoát. Nét trong tranh dân gian Đông Hồ khỏe khoắn nhưng không thô cứng, chắc chắn nhưng mềm mại, uyển chuyển, thanh thoát, tạo nên vẻ đẹp riêng của mình. Dưới bàn tay của các nghệ nhân, nét rất được chú trọng. Nét và mảng trong tranh rất phong phú, không những nêu bật được nội dung, chủ đề, tư tưởng của tác phẩm, mà còn gợi khối, tả chất rất giỏi. Chú trọng lột tả giá trị nội dung hơn là hình thức của tác phẩm. Trên tinh thần đó, tranh dân gian Đông Hồ thoát ra yếu tố tả thực. Xây dựng diện hình, mảng hình dẹt, bỏ qua vờn khối. Vai trò của thủ pháp ước lệ trong tạo hình được đề cao và khai thác. Chính nhờ thủ pháp đó, người nghệ nhân khi làm tranh đã bỏ qua các yếu tố đúng sai, đẹp xấu về mặt hình thức; chú trọng biểu cảm về mặt nội dung, sao cho tác phẩm mang được tiếng nói riêng, tình cảm của người sáng tác. Hơn thế nữa, sự tượng trưng, ước lệ về cách phối màu, dùng màu, thoát li bản chất của cấu trúc tự nhiên sự vật, nâng lên bằng những gam màu, mảng màu có tính khái quát cao... Các nghệ nhân đã quy các hình tượng nhân vật trong tranh vào các dạng hình học cơ bản: như hình tam giác, hình thang, hình tròn, ví dụ như trong tác phẩm Đánh vật, Hứng Dừa, Ngũ hổ... Trên cơ sở đó, nghệ nhân kết hợp các thủ pháp nhấn mạnh và lược bỏ. Tập trung chú trọng vào những nhân vật, đối tượng chính, quan tâm những nhận vật trung tâm để xử lí hình, mảng hay biểu cảm nội tâm nhân vật qua đó, chuyển tải nội dung của tác phẩm đến người xem với hiệu quả trực cảm mạnh mẽ. Tiêu biểu là bức tranh Đấu vật. Đây là một trong những bức tranh nổi tiếng của tranh dân gian Đông Hồ, vẽ về cảnh đấu vật của nam giới trong ngày xuân. Bức tranh chỉ tập trung diễn tả các đô vật (trong tranh không có cảnh cờ hoa, mái đình, người xem...) cùng mầu sắc cực kỳ đơn giản với chỉ có 3 mầu bao gồm cả mầu nền, nhưng với cách sử dụng nét, mảng tài tình, nghệ nhân đã tạo nên hình cân xứng, khoáng đạt trong tranh. Hình ảnh các đô vật với vóc dáng lực lưỡng đang đấu trí, đấu sức, quyết tìm các thế vật khác để quật ngã đối phương, dành phần thắng về mình. Trên nền đỏ tươi thắm của nền tranh, chất óng ả của vỏ điệp, trên thân hình các đô vật được viền bằng những nét đen chắc, khỏe, làm tôn vẻ đẹp của tinh thần thượng võ và gợi nên không gian trong ngày hội. Trong tranh với 3 đôi vật tạo thành mảng tam giác ở giữa tranh tạo nên một bố cục cho người xem cảm giác vững chắc, các mảng rất phong phú và ăn nhập với nhau và tạo nên thế cân bằng. Kết hợp với nét đen chắc, khỏe, nghệ nhân đã tạo nên hình cân xứng, khoáng đạt trong tranh. Mảng chữ nhật hai bên với cách diễn tả nét cho thấy 2 đô vật đang ngồi ôm đùi, thu chân trước ngực, như nói lên cái không khí se lạnh của tiết trời cũng như thể hiện sự nôn nóng đợi đến lượt mình lên sới. Phía trên là 2 mảng hình chữ nhật, nhìn vào ta có cảm giác như 2 xâu tiền thưởng hay hai xâu bánh pháo đang được treo nơi sân đình. Chỉ với những hình ảnh đơn giản đó nhưng người thưởng ngoạn như vẫn cảm nhận hết cái gay cấn của cuộc thi, cái se lạnh của tiết xuân, không khí rộn ràng, vui tươi của lễ hội dân tộc. Giá trị thẩm mĩ trong tranh dân gian Đông Hồ nằm ở vẻ đẹp hài hòa, cân bằng, nét luôn đạt giá trị cân bằng cần thiết trong tranh. Đó là sự cân bằng về lượng và chất, là hậu thuẫn cho mảng và nét tồn tại một cách vững chắc. Nét trong tranh dân gian Đông Hồ mang tính chất phóng khoáng của người nông dân thuần hậu, nét to, chắc, khỏe, dứt khoát khiến cho người xem có những tình cảm gần gũi với cuộc sống ruộng đồng và đầy màu sắc quê hương. Trong hội họa; mảng nét, tả chất và hình thành khối rất cần thiết, trong tranh dân dân Đông Hồ mảng nét góp phần hình thành khối, trong bức tranh Thầy đồ cóc với cách sử dụng nét kết hợp với mảng đã diễn tả thành công hình khối nhân vật. Thầy đồ cóc nhân vật chính được diễn tả bằng mảng hình to nhất, thầy đồ cóc ngồi chễm chệ trên sập, nét vẽ thầy đồ cóc là những nét cong tả khối bụng, khối lưng, khối cổ và các nét chấm diễn tả chất xù xì của da cóc, trong tranh thầy đồ cóc được thể hiện to nhất đầy tính hách dịch, phía dưới là những học trò với những mảng, hình to nhỏ khác nhau và kích thước nhỏ hơn Thầy đồ cóc rất nhiều. Các nhân vật học trò được diễn tả với những hoạt động khác nhau cùng nét, mảng và màu sắc được thay đổi liên tục tạo nên tổng thể bức tranh là một lớp học lộn xộn: chỗ thì học trò đang chịu hình phạt, chỗ thì đọc sách, chỗ thì đang lo điếu đóm... Hay bức tranh Đàn gà mẹ con, với cách sử dụng mảng nét không những nêu được đặc điểm mà còn gợi được khối và cảm giác về chất. Bằng cách dùng mảng nét để tả khối hình, các nghệ nhân đã tạo nên bức tranh có sức hút đặc biệt với người xem tranh, mỗi chú gà trong tranh đều có những nét mảng chuyển động khác nhau, có con trèo lên lưng mẹ, có con quay đi quay lại, tạo nên sự liên kết giữa gà mẹ và gà con. So sánh bức tranh Đánh ghen với bức tranh Hứng dừa chúng ta đều thấy hai bức tranh đều giống nhau về cách tạo hình, không gian, màu sắc, mang yếu tố hài hước dí dỏm nghịch ngợm. Các nghệ nhân Đông Hồ luôn chú ý đến sự hài hòa giữa đường nét, mảng và màu sắc cũng như sự hài hòa về hình thể và khoảng trống sao cho giữa chúng có một tỉ lệ hợp lý, các mảng mầu tươi được đặt cạnh nhau, được làm dịu bởi nét đen thông qua tác dụng tương phản và bổ túc. Tất cả những mầu sắc, giấy dó, và bàn tay tài hoa của người nghệ nhân đã tạo nên những tác phẩm có giá trị lớn mang tính nghệ thuật. Trong hai bức tranh Vinh hoa - Phú quý, hình vịt, gà, hoa sen, hoa cúc, các mảng to nhỏ, dài ngắn khác nhau tạo nên sự phong phú về mảng nhưng vẫn đảm bảo sự cân bằng và hài hòa. Ở đó, cách sử dụng nét và lượng rất tài tình, tạo nên sự cân bằng, mảng to mảng nhỏ đặt khéo léo. Nét to, nhỏ hợp lý, chắc khỏe, có chỗ lại dùng nét đứt tạo chất, tạo chu vi hình thể trên con vật. Có chỗ thì mảng nhỏ nhưng dùng nét để vẽ (vòng yếm), vừa tạo hình, vừa có tính trang trí. Có thể nói, cách sử dụng mảng nét và màu sắc tạo nên vẻ đẹp của tranh dân gian Đông Hồ, nét xác định hình màu, nét xác địch hình, xác định màu, nét giữ cho mảng màu đằm trên giấy, tạo ra hòa sắc, tăng thêm vẻ đẹp của bức tranh, nét còn tạo sự nhất quán của hình và các mảng màu, diễn tả được tình cảm, tính cách nhân vật bằng những nét, to nhỏ đậm nhạt, mạnh mẽ khác nhau nhưng không làm cho bức tranh khô cứng, chắc nhưng uyển chuyển thanh thoát, có thể nói mảng nét trong sự phối hợp với màu sắc đã đạt đến một tầm cao của nghệ thuật. Tranh dân gian Đông Hồ với ngôn ngữ tạo hình đơn giản, dễ hiểu, hình tượng rõ ràng, đã đáp ứng được những nhu cầu về tâm lý, tư tưởng, tình cảm và mong ước của người dân lao động, vì vậy tranh dân gian Đông Hồ dễ đi vào lòng người với những ấn tượng sâu sắc, phản ánh các đề tài gần gũi với đời sống sinh hoạt của người dân, phản ánh ước mơ, khát vọng sống của con người về một cuộc sống no đủ, hạnh phúc. Các nghệ nhân Đông Hồ đã chuyển hóa những lời hay - ý đẹp, những kinh nghiệm đúc rút trong cuộc sống từ ngàn đời để lại vào tranh với những cách thể hiện rất riêng, độc đáo, tinh tế và giàu chất biểu cảm. Ngày nay "Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ" đã được công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia và đang được lập hồ sơ trình UNESCO để xét tặng danh hiệu Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp. Với sự thành công cũng như sự quan tâm đó, mong rằng tranh dân gian Đông Hồ sẽ mãi "tồn tại, phát triển", lưu giữ và phát huy những giá trị vốn có của mình, trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống của nhân dân lao động.
Lê Trọng Nga (Tạp chí MTVN)
-----------------------------------------------------------------------------------

Tranh dân gian Đông Hồ


Tranh dân gian Đông Hồ là nghề làm tranh khắc gỗ dân gian, thuộc lĩnh vực Nghề thủ công truyền thống, được cộng đồng dân làng Đông Hồ, xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh sáng tạo và phát triển từ mấy trăm năm qua, có giá trị về lịch sử, văn hóa và nghệ thuật đặc sắc.

Trong các dòng tranh dân gian ở Việt Nam, tranh Đông Hồ thuộc dòng tranh in từ ván khắc gỗ, do người dân làng Đông Hồ sáng tạo, sản xuất và phát triển thành làng nghề. Đây là dòng tranh gắn bó và thể hiện sinh động xã hội nông nghiệp Việt cổ truyền, cuộc sống lao động của người nông dân bình dị, chất phác, phong tục, tập quán, sinh hoạt của người dân Việt. Để thể hiện một bức tranh, ngoài bản nét đen chủ đạo, tranh mẫu có bao nhiêu màu thì cần bấy nhiêu bản gỗ khắc in màu tương ứng. Đặc biệt, giấy in là loại giấy dó truyền thống, có quét điệp và màu sử dụng in tranh được chế từ nguồn gốc tự nhiên, như màu vàng của hoa hòe, màu đỏ của hoa hiên, màu trắng từ bột vỏ sò, điệp và màu đen của than lá tre..., tạo ra mỹ cảm dung dị, độc đáo.
Về thể loại, dựa vào nội dung chủ đề, có thể chia tranh Đông Hồ thành 7 loại chính, gồm tranh thờ, tranh chúc tụng, tranh lịch sử, tranh truyện, tranh phương ngôn, tranh cảnh vật và tranh phản ánh sinh hoạt.
Quá trình sản xuất tranh có nhiều khâu, song có thể tạm chia thành 2 công đoạn chính như sau: khâu sáng tác mẫu/khắc ván và khâu in/vẽ tranh. Sáng tác mẫu tranh và khắc ván là khâu lao động sáng tạo, khâu quan trọng, quyết định sự sinh tồn của một làng tranh. Nó đòi hỏi ít nhiều năng khiếu bẩm sinh và kỹ năng lao động cao ở các nghệ nhân. Công việc sáng tác mẫu tranh tốn rất nhiều thời gian, trước tiên phải lựa chọn đề tài, ý nghĩa, nội dung sâu sắc, màu sắc hài hoà, bố cục chặt chẽ và có giá trị nghệ thuật cao. Khi sáng tác mẫu tranh, các nghệ nhân thường sử dụng bút lông và mực Nho để vẽ lên giấy bản mỏng và phẳng để người thợ khắc, đục ván theo mẫu. Việc sáng tác mẫu tranh không phải là việc của riêng các nghệ nhân mà thường là kết quả chung của một làng tranh, của nhiều thế hệ. Cũng chính vì thế mà trong tranh Đông Hồ, có trường hợp một mẫu nhưng có nhiều dị bản khác nhau, hoặc một mẫu tranh cũng có đến hai, ba cách phân bố màu khác nhau. Vì vậy, có nhiều mẫu tranh cổ đến nay chúng ta cũng chưa xác định được chủ nhân sáng tạo.
Ván khắc in tranh có 2 loại: ván in nét và ván in màu. Ván in nét thường được làm từ gỗ thị hoặc gỗ thừng mực. Gỗ thị có thớ đa chiều, vừa mềm, dễ khắc lại vừa dai, do đó khi khắc ván in, nghệ nhân có kỹ năng chạm khắc giỏi, sẽ tạo được các nét gọn, mảnh, nhỏ, tinh vi và ván in lại mềm. Dụng cụ khắc ván là những mũi đục hay còn gọi là bộ ve, được làm bằng thép cứng. Mỗi bộ ve có khoảng 30 - 40 chiếc.
Vật liệu và dụng cụ dùng để in tranh gồm: giấy dó, các loại màu, ván in, co ván, bìa và thét (chổi làm bằng lá thông). Cách thức in tranh như sau: trước khi in tranh, phải chuẩn bị sẵn giấy in để thành 1 tập (khoảng từ 100 đến 200 tờ ở trước mặt). Khi in, người ta nhúng thét lá thông vào chậu màu để lấy màu, rồi quét đều trên mặt bìa. Phương pháp lấy mực để in tranh dân gian Đông Hồ theo cách xếp ván, tức là cầm "co" ván dập đi, dập lại tấm ván xuống mặt bìa đã được phết màu, để màu thấm đều trên bề mặt ván, sau đó đặt ván in lên tờ giấy định in sao cho cân đối, chính xác, ấn mạnh ván in vào tờ giấy, để có sự liên kết nhất định, rồi lật ngửa ván in có dính cả tờ giấy in tranh lên; lấy xơ mướp xoa đều lên mặt sau tờ giấy, để cho phẩm mầu trên mặt ván tiếp tục thấm đều trên mặt giấy. Tiếp đó, gỡ tờ tranh ra khỏi ván in, rồi mang tranh ra phơi ở những nơi thoáng mát. Tranh khô rồi mới tiếp tục lần lượt in các màu khác. Bản nét đen bao giờ cũng được in cuối cùng.
Trước kia, chỉ có nghệ nhân làng Hồ sáng tác mẫu mới vẽ tranh bằng tay. Các công đoạn khác trong sản xuất tranh dân gian Đông Hồ đều dùng ván in. Ngày nay, người ta còn vẽ tranh theo cách thức khác (ngoài in), đó là tô màu, vờn màu trên tranh đã được in ván nét trước (theo lối vẽ tranh Hàng Trống) và vẽ tranh trên giấy trắng hoặc giấy màu bồi. Khi vẽ tranh trên giấy đã in ván nét, người nghệ nhân chỉ việc phân bố màu sắc sao cho hài hoà, hợp lý, thể hiện rõ nội dung của bức tranh, mà vẫn biểu đạt được giá trị thẩm mỹ.
Về giá trị nghệ thuật, so với các dòng tranh  khác, tranh dân gian Đông Hồ có tính biểu trưng, trang trí nhưng vẫn giữ được nét mộc mạc, dễ hiểu, gần gũi với đời sống của người dân vùng châu thổ Bắc Bộ, độc đáo trong việc sử dụng đường nét tiết giản và những mảng màu dẹt đều, là màu tự nhiên của cỏ cây, hoa lá, tươi sáng trên nền giấy dó quét điệp óng ánh. Về nội dung, tranh dân gian Đông Hồ phản ánh sâu sắc đời sống tinh thần, vật chất của con người, xã hội theo quan điểm mỹ học dân gian của người dân nơi đây. Đó là những bức tranh khắc hoạ ước mơ ngàn đời của người lao động về cuộc sống gia đình thuận hoà, ấm no, hạnh phúc, về một xã hội công bằng, tốt đẹp. Tranh dân gian Đông Hồ góp phần không nhỏ vào việc lưu giữ những vốn văn hoá truyền thống của dân tộc, làm cho đời sống tinh thần của người Việt Nam thêm phong phú.
Hiện nay, tranh dân gian Đông Hồ đang đứng trước nguy cơ mai một do tác động của nền kinh tế thị trường, nhu cầu thẩm mỹ của người dân thay đổi, “đầu ra” cho tranh gặp nhiều khó khăn. Dân làng tranh giờ đây chủ yếu làm hàng mã. Bên cạnh đó, theo đánh giá của một số họa sĩ, tranh Đông Hồ không còn mang tính hồn nhiên, chất phác, “thuần Việt” như xưa, mà đang dần bị thương mại hoá, không có màu sắc thắm như tranh cổ, do người ta trộn màu trắng vào điệp để tiết kiệm lượng điệp, khiến giấy mất độ óng ánh. Đồng thời, màu sử dụng cũng chuyển sang dùng loại màu công nghiệp cho rẻ và tiện, các bản khắc mới thường thô và sơ sài, không được tinh tế như bản cổ. Đặc biệt, một số bản khắc đã bị đục bỏ phần chữ Hán, hoặc chữ Nôm, vốn là một phần cấu tạo nên bố cục của tranh, khiến tranh bị mất đi tính hoàn chỉnh.
Nghề làm tranh Đông Hồ ngày nay tồn tại “yếu ớt”, chỉ còn một vài gia đình duy trì. Theo thống kê mới đây, số lượng nghệ nhân hiện chỉ còn 3 người, số lượng người thực hành khoảng 20 người, số nghệ nhân hiện còn khả năng truyền dạy chỉ còn 2 người (ông Nguyễn Hữu Sam và ông Nguyễn Đăng Chế) đều đã cao tuổi. Trước nguy cơ này, Tỉnh Ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã có một số chủ trương, biện pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể nghề làm tranh dân gian Đông Hồ, như ban hành Nghị quyết về phát triển làng nghề tiểu thủ công nghiệp, trong đó có nghề làm tranh dân gian Đông Hồ; ban hành Quyết định về xây dựng và phát triển khu công nghiệp tập trung, khu công nghiệp làng nghề trên địa bàn tỉnh; giao Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch Bắc Ninh thực hiện Dự án “Bảo tồn văn hoá phi vật thể làng tranh Đông Hồ”; Đảng bộ và chính quyền và nhân dân xã Song Hồ, huyện Thuận Thành đề xuất xuất với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cho tổ chức khảo sát, đánh giá thực trạng, tổ chức hội thảo khoa học về nghề làm tranh dân gian Đông Hồ và cho lập Hồ sơ đề nghị UNESCO ghi danh vào Danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp.
Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ có giá trị cao về mặt lịch sử, văn hóa, khoa học, được Chính phủ đồng ý cho lập hồ sơ trình UNESCO và được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia (đợt 1), loại hình Nghề thủ công truyền thống tháng 12 năm 2012.
Kim Dung (Theo Hồ sơ di sản, tư liệu Cục Di sản văn hóa)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét