Trang

Thứ Ba, 20 tháng 8, 2013

Một số quy tắc bố cục tranh phong cảnh và những lỗi cần tránh

Johannes Vloothuis sưu tầm ở đây môt loạt quy tắc (hay hơn nên gọi là mẹo) bố cục tranh mà khi sử dụng đúng thì sẽ giảm bớt sai lầm trong các bức tranh phong cảnh. Đây là những mẹo có ở trong hầu hết các sách dạy vẽ phong cảnh cộng với một số ý tưởng riêng của ông. Xin nhắc các bạn trước: Đừng để cho những quy tắc này trói buộc bạn.
A. Một số quy tắc bố cục tranh phong cảnh
1. Hãy nhìn vào bức tranh trên đây. Một bức tranh phong cảnh cần phải có một trung tâm chú ý, một điểm nhấn, là khu vực đẹp nhất. Điểm nhấn có thể được nhấn mạnh ở vị trí của nó và bằng màu sắc và độ tương phản. Một điểm nhấn tốt thường có:

* Màu mạnh nhất.
* Thay đổi đột ngột về độ tương phản.
* Nên nhưng không nhất thiết chiếm một phần tương đối lớn của bức tranh.
* Những cấu trúc do con người tạo nên, động vật hoặc hình dáng con người cũng giúp tăng thêm điểm nhấn. Đó là những diễn viên chính.
* Khu vực xung quanh phụ trợ cần phải hướng người xem đến điểm nhấn bằng một chỉ báo hoặc một đường dẫn (xem hình 1 & 2)
* Điểm nhấn không nên đặt ở chính giữa bức tranh, tốt nhất là ở tỷ lệ 1/3.
* Điểm nhấn không nên bị che khuất, dù chỉ là một chút. Làm thế sẽ làm giảm tầm quan trọng.
* Một điểm nhấn được chọn tốt sẽ thu hút tâm trí người xem.

 
Cây gỗ trong bức ảnh này được đặt ở vị trí phù hợp làm đường dẫn cho mắt người xem hướng tới điểm nhấn

Trong bức tranh này đường viền mé nước là đường dẫn cho người xem hướng tới cây cầu là nhân vật chính trong bức tranh
2. Bạn có thể tạo một điểm nhấn thứ 2 trong tranh, coi như chương 2 trong câu chuyện của bạn. Tôi khuyên các bạn mới tập vẽ không nên dùng phương pháp này đến khi bạn thật sự thành thạo vì có thể 2 điểm nhấn sẽ cạnh tranh với nhau. Hai điểm nhấn không được chồng lên nhau. Một điểm phải lớn hơn và mạnh hơn. Cách tốt nhất là 2 điểm nhấn chéo nhau. Nếu không chéo được thì phương án 2 là theo phương nằm ngang.
Bức tranh dưới đây có thể đẹp mà không cần có bụi cây hoa ở phía dưới. Tuy nhiên tác giả đã quyết định thêm nó vào làm điểm nhấn thứ 2 cho bức tranh
3. Nên tránh đẩy người xem ra ngoài bức tranh bằng cách có những thành tố chỉ ra viền tranh hoặc chạy ra ngoài tranh, ví dụ cây gỗ, con đường, dòng sông chạy ra ngoài bức tranh. Lỡ có mà khó tránh được thì đặt một cái gì đó chặn không cho người xem đi ra ngoài tranh. Quy tắc tối thiểu là người và động vật nên hướng về người xem và vào phía giữa bức tranh.
Hãy chú ý đến con ngựa ở bên phải bức tranh này. Chú ý họa sĩ đã làm giảm giá trị con ngựa này bằng cách vẽ nó màu sẫm và nhòa vào với bụi cây. Nếu con ngựa này màu sáng hơn và tương phản với nền thì rõ ràng nó đã hướng người xem chạy thẳng ra ngoài bức tranh
Ở bức thứ nhất, cây gỗ quá thẳng và chỉ thẳng ra ngoài bức tranh. Bức thứ 2 đã được sửa, một vài cành gãy, nhánh cây được thêm vào để giảm tốc độ người xem chạy đi mất. Nhìn vào bức thứ 3, cây gỗ được đưa ra khỏi bức tranh và người xem bây giờ sẽ hướng theo đường mép nước để thưởng thức bức tranh

4. Sông, suối, đường nên vào bức tranh theo hình chữ "S" hoặc chí ít thì cũng là hình uốn cong chữ "C". Tránh đường thẳng bằng mọi giá vì nó quá nhanh. Hãy để cho người xem "đi bộ" chầm chậm vào bức tranh
Dòng suối này bố cục theo chữ S, chậm chạp và lười biếng

Hình này, dòng sông uốn theo hình chữ C. So sánh hình này với hình trên, bạn sẽ thấy bức hình trên cho phép người xem đi chậm hơn và thưởng thức kỹ hơn

Bố cục sai, con đường là một đường thẳng. Đường dẫn quá nhanh

Tốt hơn hình trên vì có khúc quanh 

5. Nghệ thuật nhiều khi không cần logic. Tác động bằng hình ảnh là điều quan trọng nhất.
Chú ý hàng cây làm cho người ta cảm giác gió thổi từ bên phải sang bên trái. Thế nhưng hướng của mưa thì lại cho thấy gió thổi ngược lại

6. Đặt các chủ thể quan trọng vào điểm nhấn, đừng để họ chạy lung tung vì như thế họ sẽ cạnh tranh sự chú ý của người xem.
Tất cả người trong bức tranh này nằm trong bán kính của điểm nhấn ở góc dưới bên phải

Con ngựa này đặt sai chỗ. Giá mà họa sỹ đặt nó cạnh cái ghế băng thì bố cục sẽ đẹp hơn

7. Bạn có thể mời người xem tham gia vào bức tranh. Để cho người xem tự lang thang và tìm ra điểm thú vị, suy ngẫm, tưởng tượng.

Sau khúc quanh này là cái gì? Có phải là một cái hồ nước hay một thành phố? Nghệ sỹ để cho người xem tự suy tưởng

8. Chiều sâu. Nghệ sỹ có lúc cần sử dụng mặt giấy phẳng 2 chiều để tạo ảo ảnh ba chiều. Chúng ta phải làm sao cho người xem tin những gì họ nhìn thấy là thật. Sau đây là vài mẹo nhỏ để tạo ảo ảnh 3 chiều.

* Đặt chủ thể chồng lên nhau một phần.
* Cảm giác về không gian. Màu sắc xanh hơn và nhạt hơn về phía hậu cảnh, đậm hơn về phía tiền cảnh. Trong thiên nhiên không phải lúc nào cũng thế, cái cây xa vài trăm mét vẫn cứ sẫm màu như thế. Bạn phải chọn góc nhìn phù hợp và thay đổi tùy ý.
* Các thành tố càng ở xa thì càng nhỏ hơn và mờ nhạt hơn.
* Tạo ít nhất 3 lớp, tiền cảnh, trung cảnh, hậu cảnh.
* Hãy xem lại hình 13. Ở tranh này có cảm giác xa gần rất rõ. Cây thông ở phía trước ngọn núi tạo cảm giác ngọn núi ở xa hơn. Màu sắc vàng ở tiền cảnh ấm hơn trong khi đó hậu cảnh nhạt nhòa hơn và lạnh hơn. Bóng ở trên ngọn núi ở xa nhạt hơn và xanh hơn ở trung cảnh. Rõ ràng có 3 lớp ở bức tranh này.

Nhiều lớp sẽ tăng cường cảm giác xa gần nếu bạn làm tối tiền cảnh. Sương mù tạo cảm giác xa

9. Sử dụng màu và độ tương phản mạnh nhất cho điểm nhấn. Ở ngoài điểm nhấn thì giảm độ tương phản để giảm sự chú ý vào các điểm không quan trọng.

Bố cục sai. Cái cây ở bên trái quá sẫm làm giảm chú ý vào điểm nhấn

Bố cục tốt hơn. Cái cây bị cắt đi và độ tương phản giảm. Người xem chú ý vào con trâu hơn

Bộ quần áo sẫm màu của người đàn ông làm cho anh ta nổi bật. Cái cửa ở góc không có nắng cũng sẫm màu nhưng xung quanh nó lại là màu trung bình, không tương phản nên không thu hút sự chú ý. Hãy nhớ mẹo này giống như trong nhà hát người ta dùng đèn rọi chiếu vào nhân vật chính hay ca sĩ trên sàn diễn

10. Bức tranh của bạn trông sẽ không quá rối mắt nếu bạn tạo cho người xem một chỗ nghỉ, tốt nhất là ở trước điểm nhấn. Cho người ta một ít không gian để thở.
Mảng tuyết trắng trước cây thông tạo một chỗ nghỉ thoải mái

11. Nếu được thì đưa vào tranh một ít chuyển động dọc, ngang hoặc chéo. Chỉ nên có 1 yếu tố có độ dài nhất. Đường chéo là hay nhất vì không song song với khung hình. Điều này sẽ tạo cho người xem có cảm giác về hướng.

Cây thông theo chiều dọc, cỏ thì theo đường chéo, đường mé nước ở xa thì nằm ngang. Chú ý: những cây thông làm loại bỏ cảm giác có một hình tam giác xanh ở bên phải

12. Khi đưa vào tranh những chủ thể mà bản chất là chuyển động, nếu được thì tạo cảm giác chủ thể đang chuyển động mà không đặt chủ thể vào trạng thái như là đang tạo dáng.

Nghệ sỹ cho thấy là con ngựa đang đi bằng cách vẽ bụi bốc lên và vẽ dáng đuôi ngựa. Không có con ngựa nào đang "bay" trong không trung cả. Khi chụp ảnh thì hay bị "bay" như thế nhưng nếu được thì nên tránh. Khi vẽ thác nước cũng vậy, đôi khi chụp ảnh thì có cảm giác "đóng băng" thác nước, cứng nhắc. Tốt hơn là vẽ hay chụp thác nước mờ vì nước chảy. Như thế truyền cảm giác chuyển động tốt hơn

13. Nếu bạn không quyết định được bắt đầu đường dẫn vào điểm nhấn của tranh (ví dụ như một dòng sông, con đường) từ đâu, nên để ý đến quy tắc này. Hầu hết chúng ta đều đọc từ trái sang phải, vì thế đa số mắt đều có thói quen bắt đầu nhìn từ phía bên trái bức tranh.

14. "Lối vào" của tranh cũng có thể bắt đầu từ góc trên bên trái giống như đọc một trang sách vậy.

15. Đừng bắt đầu lối vào từ góc bức tranh.

Đây là một bố cục tồi. Như các bạn thấy, dòng sông chạy từ góc dưới bên trái bức tranh

Bằng cách làm rộng thêm hình cửa sông chúng ta đã giải quyết được vấn đề dòng sông chạy từ góc tranh.
                                                                                     Tác giả: Johannes Vloothuis

Các trường phái hội họa trên thế giới



Khi tìm hiểu về mỹ thuật, nhiều người có chung những câu hỏi: "Trường phái hội họa là gì ?" , "có tất cả bao nhiêu trường phái hội họa ?" , " trường phái nào lớn nhất ?" và khi tìm hiểu thêm nữa thì ai cũng lại muốn biết thêm " họa sỹ tiêu biểu nào đứng đầu một trường phái ?" , " tác phẩm tiêu biểu ?"...

Trường phái hội họa là gì?

Hội họa đã xuất hiện từ rất lâu, từ khi chữ viết của con người còn chưa xuất hiện, từ lịch sử mỹ thuật ta có thể đưa ra kết luận: hội họa là một ngôn ngữ để truyền đạt ý tưởng bằng các tác phẩm sử dụng kỹ thuật (nghệ) và phương pháp (thuật) của họa sỹ. Trong hội họa, thuật ngữ “trường phái” dùng để chỉ một phong cách, trong đó phân loại một nhóm các họa sỹ có chung những kỹ thuật và phương pháp thể hiện.

Có tất cả bao nhiêu trường phái hội họa?
Đây là 1 câu hỏi khó, mà DEZIART tin rằng không ai có thể thống kê hay tổng kết để trả lời chính xác được.
Các trường phái hội họa ở trên thế giới là vô cùng nhiều, các trường phái xuất hiện ở bất cứ quốc gia nào, và ở bất cứ khoảng thời gian nào. Vẫn đề chỉ là tính đại chúng - được nhiều người biết đến hay không mà thôi.

Các trường phái hội họa Châu Âu
Nhắc đến các trường phái hội họa, chúng ta hay nghĩ ngay đến những thuật ngữ : "Trừu tượng" "Lập thể" "Ấn tượng" ... Đó là các trường phái lớn (bắt nguồn từ Châu Âu) có tầm ảnh hưởng quốc tế, và dần trở thành quy chuẩn cho mỹ thuật thế giới.

* Ấn tượng
* Baroc
* Cấu trúc
* Chấm họa
* Dã thú
* Graffiti
* Hard-edge
* Hậu ấn tượng
* Hậu hiện đại
* Hiện đại
* Hiện thực
* Hiện thực lãng mạn
* Hiện thực xã hội
* Lãng mạn
* Lập thể
* Mannerism
* Ngây thơ
* Pop-Art
* Siêu thực
* Tân cổ điển
* Thị giác (Op-Art)
* Trừu tượng
...

Như đã nêu, các trường phái trên là những trường phái nổi bật nhất, có sức ảnh hưởng mạnh mẽ nhất. Chứ không phải là toàn bộ các trường phái mỹ thuật trên thế giới. Các trường phái hội họa phương Tây đều có tính lịch sử, một trường phái ra đời do phản ứng lại những hạn chế của trường phái trước đó và đến lượt nó lại tạo cơ hội cho một trường phái mới phát triển.

# 1 Trường phái ấn tượng - Impressionism(1874- 1886)
# 2 Trường phái hậu ấn tượng (Post Impressionism 1886- 1910)
# 3 Trường phái Dã thú - Fauvism (1905-1909)
# 4 Trường phái biểu hiện -Expressionism (1906-1919)
# 5 Trường phái lập thể - Cubism (1909-1926)
# 6 Trường phái tương lai - Futurism (1909-1918)
# 7 Trường phái Dada (Dadaism) (1916-1922)
# 8 Trường phái siêu thực - Surrealism (1924-1938)
# 9 Trường phái ấn tượng trừu tượng - Abstract Expressionism (những năm 1940)
# 10 Trường phái Kinetic Art (1950's-1960's)
# 11 Trường phái Pop Art (1961-1968)
# 12 Trường phái Op Art (1964-1967)
# 13 Trường phái Minimalism (1966-1970)
# 14 Trường phái nghệ thuật nhận thức- Conceptual Art (1960's and 70's)
....

Một số trường phái mỹ thuật hiện đại tiêu biểu
1. Trường phái ấn tượng
Bức tranh Village on the Banks of the Seine của Alfred Sisley

Ấn tượng (tiếng Pháp: Impressionnisme; tiếng Anh: Impressionism) là một trào lưu nghệ thuật bắt đầu tại Paris (Pháp) vào cuối thế kỷ 19. Trường phái ấn tượng đánh dấu một bước tiến quan trọng của hội họa. Cái tên "ấn tượng" do các nhà phê bình gọi theo một bức tranh nổi tiếng của Claude Monet: Impression, soleil levant (Ấn tượng mặt trời mọc).

Trường phái ấn tượng hình thành từ Paris hiện đại. Đó là chất xúc tác, là nơi xuất phát và là chủ đề của trường phái ấn tượng. Trong thập niên 1850, Paris vẫn còn là một thành phố thời Trung cổ với những con đường quanh co, nhỏ hẹp, thiếu vệ sinh và thiếu cả ánh sáng. Vào khoảng thập niên 1870, thời hoàng kim của trường phái ấn tượng, thành phố cũ già nua này đã bị phá bỏ thành bình địa để từ đó xây dựng lại một thủ đô với những đại lộ dài, với hàng dãy tiệm cà phê, nhà hàng, và nhà hát.

Những bức tranh thuộc trường phái ấn tượng được vẽ bằng những nét cọ có thể nhìn thấy được, sự pha trộn không hạn chế giữa các màu với nhau và nhấn mạnh đến sự thay đổi và chất lượng của độ sáng trong tranh.

Hai ý tưởng đáng chú ý trong trường phái này là: Bức tranh được vẽ rất nhanh với mục đích là ghi lại một cách chính xác tổng quan của khung cảnh.Tiếp theo sau là thể hiện một cái nhìn mới,nhanh và không định kiến; khác với trường phái hiện thực,tự nhiên.

Các họa sĩ tiêu biểu của trường phái này: Mary Cassatt, Paul Cezanne (sau này đã rời bỏ phong trào), Edgar Degas, Max Liebermann, Édouard Manet (tuy nhiên Manet không xem mình thuộc phong trào), Claude Monet, Berthe Morisot, Camille Pissarro, Pierre-Auguste Renoir, Zinaida Yevgenyevna Serebryakova, Alfred Sisley

2. Trường phái hậu ấn tượng
 
Tranh của Vincent Van Gogh

Hậu ấn tượng là tên gọi chung để chỉ tới những nghệ sĩ thuộc thời kỳ sau trường phái ấn tượng. Trường phái ấn tượng là một bước ngoặt trong hội họa, rũ bỏ những quan niệm từng tồn tại rất nhiều năm ở châu Âu. Từ sau ấn tượng, nhiều nghệ sĩ độc lập tìm tòi sáng tạo và đi theo các hướng khác nhau. Mặc dù họ không có phong cách sáng tác giống nhau, nhưng được gọi chung là hậu ấn tượng. Thuật ngữ này do nhà phê bình người Anh Roger Fry đặt ra chỉ những họa sĩ như Paul Cézanne, Paul Gauguin, Vincent Van Gogh. Nghiên cứu về các họa sĩ này cũng cho thấy sự phát triển của nghệ thuật Pháp thời gian cuối thế kỷ 20.

Các nghệ sĩ hậu ấn tượng từ chối rập khuôn theo chủ nghĩa ấn tượng và từng người tìm cách nổi bật cá tính của mình, có thái độ biểu hiện chủ nghĩa trong hình họa, màu sắc và cách giải quyết đề tài. Đó thực sự làm nên một nghệ thuật mới với những tuyên ngôn thẩm mĩ khác, không giống với nghệ thuật và kĩ thuật của xu hướng ấn tượng mà họ cùng tham gia trước đó. Ba họa sĩ Paul Cézanne, Paul Gauguin, Vincent Van Gogh với ba phong cách hiện thực đã làm phong phú và đa dạng một thời kỳ ngắn ngủi nhưng vang dội và đầy hấp dẫn của của nghệ thuật. Họ báo hiệu cho các trào lưu sẽ nở rộ ở thế kỷ 20.

3. Trường phái dã thú

 
Tranh của Maurice de Vlaminck

Để chống chọi với trường phái Ấn tượng, quá chú trọng đến ánh sáng mà quên đường nét của cảnh vật, nên trường phái Dã thú ra đời.

Trường phái Dã thú có sự phản ứng mạnh mẽ chống lại trường phái Ấn tượng, chống lại sự mất mát không gian do dùng quá nhiều ánh sáng, do sự phân tích tỉ mỉ, không theo quy luật nào, vì thế chỉ là sự ngẫu nhiên và không có suy tính trước. Sự cần thiết cho họa sĩ trường phái Dã thú là màu sắc, chứ không phải vẽ như thấy thực tế, mà là phải sáng tạo sắc độ. Bức tranh là một bố cục nhiều màu, không phải là sự sao chép thiên nhiên; là sự liên tục tạo hình sống động, không là cảnh sắc vặt vụn, là một sự bố cục màu sắc mạnh bạo, không phải là sự tình cờ đẹp mắt.

Năm 1905, triễn lãm mùa thu ở Paris có một phòng tranh giới thiệu những tác phẩm mới, đặc biệt dữ dội về màu sắc. Công chúng xem tranh phản ứng khác nhau, vì có một sự thật là một loạt tiêu chí hội họa cổ điển nữa đang bị phá vỡ. Phòng tranh được nhà phê bình LuisVauxcelles gọi là " Chuồng dã thú ", và cái tên Dã thú đã bước vào lịch sử hội hoạ Thế giới. Tên goi đó rất phù hợp với các họa sĩ này bởi vì những màu sắc mà họ sử dụng là dữ dội một cách cố tình.

Khuynh hướng Dã thú ra đời đầu thế kỷ XX, phát triển cực thịnh năm 1905 - 1906, có dấu hiệu suy tàn năm 1907 và chấm dứt hoạt động trước chiến tranh Thế Giới thứ nhất để chuyển sang những phong cách rất khác nhau. Những thành viên tiêu biểu là: Henri Matisse, Vlaminck, Derain, Van Doghen, Marquet, Dufy....

Hầu hết thành viên của trường phái Dã thú là người Pháp và trẻ tuổi. So với khuynh hướng Ấn tượng, sự xuất hiện của hội họa Dã thú mang tính chất đảo lộn, phủ định hơn rất nhiều. Tất cả đều cùng ý chí " Nổi loạn màu sắc", Vlaminck và Derain tuyên bố sẽ " Đốt trụi trường Mỹ thuật bằng các sắc xanh Cobalt và đỏ son".

Để thực hiện tham vọng sáng tạo một nền hội họa mới, các họa sĩ Dã thú chủ trương phất cao lá cờ tự do, không lệ thuộc vào đề tài, vào thiên nhiên và sử dụng màu sắc một cách mạnh mẽ nhất, dùng màu nguyên chất tạo sự tương phản mạnh và vứt bỏ khối vờn, bỏ diễn tả sáng tối. Theo họ như vậy tranh mới phát huy được hết các cường độ và âm hưởng của màu, mới tương ứng với tình cảm mạnh mẽ của lớp thanh niên đầu thế kỷ. Nhãn thức Dã thú đã đưa hội họa đến một không gian chói chang. Họ sử dụng bút pháp phóng đại cường điệu. Con người và sự vật trong tranh được vẽ bởi những nét rất dứt khoát và đậm. Với họ, bức tranh phải thể hiện cá tính mạnh mẽ, biểu hiện những tư tưởng tình cảm và rung động chủ quan của tác giả.

4. Trường phái biểu hiện
 
Bức tranh Tiếng thét của Edvard Munch

Chủ nghĩa biểu hiện hay Trường phái biểu hiện (Expressionism) là một trào lưu nghệ thuật xuất hiện và phát triển ở châu Âu vào những năm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, có đặc điểm nhấn mạnh, thậm xưng trong sự thể hiện cảm tính - xúc cảm của chủ thể (thường là cảm xúc con người hoặc một nhóm người) hoặc xúc cảm của chính người họa sĩ. Những cảm xúc này thường được gây ra bởi một sự kiện đặc biệt nào đó, cũng có thể bởi sự gặp mặt-giao lưu của nhiều người hoặc sự giao lưu của những xu hướng hội họa khác nhau (như cổ điển và hiện đại).

Chủ nghĩa biểu hiện thể hiện trong nhiều dạng nghệ thuật, từ hội họa, kiến trúc cho đến văn học, thơ ca, nhạc kịch và điện ảnh.

5. Trường phái lập thể
Tranh của Pablo Picasso

Chủ nghĩa lập thể, còn gọi là trường phái lập thể, (Cubism) là một trường phái hội họa tạo ra cuộc cách mạng về hội họa và điêu khắc châu Âu vào đầu thế kỷ 20. 

Trong tác phẩm của họa sỹ lập thể, đối tượng được mổ xẻ, phân tích và được kết hợp lại trong một hình thức trừu tượng. Người họa sỹ không quan sát đối tượng ở một góc nhìn cố định mà lại đồng thời phân chia thành nhiều mặt khác nhau, nhiều khía cạnh khác nhau. Thông thường các bề mặt, các mặt phẳng giao với nhau không theo các quy tắc phối cảnh làm cho người xem khó nhận ra chiều sâu của bức tranh. 

Chủ nghĩa lập thể do Georges Braque và Pablo Picasso khởi xướng năm 1906 tại khu Montmartrecủa kinh đô ánh sáng Paris, Pháp. Họ gặp nhau năm 1907 và làm việc cùng nhau cho đến năm 1914 khi Đệ nhất thế chiến bắt đầu.

Nhà phê bình hội họa người Pháp Louis Vauxcelles sử dụng danh từ "lập thể" lần đầu tiên để ngụ ý rằng đó là những hình lập phương kỳ quặc vào năm 1908. Sau đó danh từ này được hai nhà khai phá của trường phái lập thể sử dụng một vài lần và sau đó thành tên gọi chính thức.

Trường phái Lập thể khai sinh ở đồi Montmartre, sau đó lan ra các họa sỹ khác ở gần đó và được nhà buôn tranh Henry Kahnweiler truyền bá. Nó nhanh chóng trở nên phổ biến vào năm 1910 và được gọi là chủ nghĩa lập thể. Tuy nhiên, một số họa sỹ khác cũng tự coi là họa sỹ lập thể khi đi theo các khuynh hướng khác với Braque và Picasso.

Lập thể ảnh hưởng tới các nghệ sỹ vào thập niên 1910 và khơi dậy một vào trường phái nghệ thuật mới như chủ nghĩa vị lai, chủ nghĩa cấu trúc và chủ nghĩa biểu hiện.

Các nghệ sỹ thiên tài, Braque và Picasso mở ra phương pháp mới trong cách diễn đạt và thể hiện không gian trong hội họa nhưng chính họ lại bị ảnh hưởng của các nghệ sỹ khác như Paul Cezanne, Georges Seurat, điêu khắc Iberi, nghệ thuật điêu khắc châu Phi và như sau này Braque thừa nhận, họ bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa dã thú.

Các họa sỹ lập thể nổi tiếng của trường phái này: Georges Braque, Marcel Duchamp, Juan Gris, Fernand Leger, Jacques Lipchitz, Louis Marcoussis, Marie Marevna, Jean Metzinger, Francis Picabia, Pablo Picasso, Liubov Popova, Marie Vassilieff, Fritz Wotruba…

6. Trường phái tương lai
Tranh của Umberto Boccioni

Chủ nghĩa tương lai là một trường phái nghệ thuật bộc lộ một cách trần trụi sự bất mãn với xã hội đương thời. Trường phái này nổi bật nhất ở Italy.

Các họa sĩ của trào lưu Giacomo Balla, Umberto Boccioni, Carlo Carrà, Severini, Luigi Russolo đã mượn kỹ thuật điểm mảng màu của trường phái Ấn tượng mới và trường phái Lập thể để chồng chéo hình thức, nhịp điệu, màu sắc và ánh sáng, qua đó thể hiện một "cảm giác động" và tính đồng thời của các trạng thái tâm hồn, cấu trúc phức tạp của thế giới.

7. Trường phái Dada (Dadaism)
 
Tranh của Jean Arp

Những người theo trường phái dadaism đã cố gắng làm rõ tất cả những ý tưởng và nguyên tắc mới lạ.

Ða đa là một phong trào văn học nghệ thuật (nhất là hội hoạ) phản kháng dữ dội của các nghệ sĩ và các nhà văn Âu Mỹ, cống lại sự tự mãn, trong đó, những sức mạnh sáng tạo nghệ thuật được hướng vào việc chống lại nghệ thuật. Phong trào nầy sinh ra do tâm trạng vỡ mộng vì ảnh hưởng của Ðại chiến thế giới lần thứ nhất, mà một số nghệ sĩ thuộc nhiều khuynh hướng khác nhau đã phản ứng lại một cách mỉa mai, cay độc, thậm chí với những tư tưởng vô chính phủ nữa. Qua những thể hiện của họ, cái phi lý và tư tưởng phản kháng là hai điểm nổi bật nhất.

Những họa sĩ tham gia trong trường phái Đa đa phải kể: Apollinaire, Marinetti, Picasso, Modigliani, Kandinsky. Tháng 3/1917, một Gallery của trường phái Đa đa ra đờiở Bahnhofstrasse. Tháng 7/1917, cuốn sách đầu tiên của trường phái Đa đa được xuất hiện do hai hoạ sĩ Đa đa thực hiện là Tzana Do Janko và Hans Arp. Một đoạn viết về lịch sử của trường phái Đa đa do Huelsenbeck công bố (7/1920) ở Hanover cho rằng: “Trường phái Đa đa họp tại quán Voltaire tập trung các nghệ sĩ nhạy cảm với sự phát triển những cách thể hiện mới”.

8. Trường phái siêu thực
 
Tranh của Joan Miró

Trường phái surrealissm đã phô bày những tác phẩm nghệ thuật bằng trang và bằng chữ viết. Họ nhấn mạnh đến sức mạnh của trí tuệ khi tạo ra những tác phẩm nghệ thuật có ý nghĩa.

Với trường phái hội họa này, những chủ thể rất bình dị được đặt trong một phông màn hoặc bí ẩn, hoặc hùng vĩ, khiến cho bức tranh mang một sức sống mới, ý nghĩa mới, như tồn tại trong mơ cùng những sự vật hiện thực trong trạng thái không thực.

9. Trường phái ấn tượng trừu tượng
Tranh của Jackson Pollock

Trong khoảng thời gian ngắn, nước Mỹ đã phải trải qua một thời kỳ mà phong trào nghệ thuật lên cao. Trường phái ấn tượng trừu tượng này đã đánh dấu một kỷ nghuyên trong lịch Mỹ. Trường phái De Stijl bao gồm một loại hình nghệ thuật mới, đó là kiến trúc nghệ thuật hiện đại. Trường phái này sử dụng những tài năng của các nghệ sỹ để thiết kế nhà cửa, công trình và đồ đạc.

10. Trường phái Kinetic Art
 
Tác phẩm của nhà điêu khắc Naum Gabo
Trường phái nghệ thuật này đóng vai trò rất quan trọng bởi vì nó đã khai thác được các khía cạnh nghệ thuật cảm xúc. Bản thân trường phái này đã chứa đựng rất âm bội bao gồm có những âm bội của nền văn hoá nghệ thuật, tự nhiên và khoa học kỹ thuật. Trường phái này chủ trương khai thác các khía cạnh nghệ thuật cảm xúc.

11. Trường phái Pop Art
 
Bức họa Marilyn Monroe của Rebecca Rhys Butler

Pop Art là trào lưu nghệ thuật mới ra đời ở Anh trong thập kỷ 50 của thế kỷ 20. Song nơi nó phát triển rực rỡ nhất và để lại dấu ấn trong lịch sử mỹ thuật chính là tại Mỹ.

Pop Art nổi tiếng với các bức họa lấy những đề tài bình dân, phổ biến với mọi người như các thần tượng mà mọi người tôn thờ trong ca nhạc, phim ảnh, nhãn mác sản phẩm, tranh quảng cáo, bao bì sản phẩm... thậm chí đôi giày, tờ báo... làm chủ đề chính để sáng tạo nghệ thuật.

Cách thể hiện của trường phái Pop Art chấp nhận tất cả các cách có thể. Bức họa "Marilyn Monroe" là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho Pop Art, tác phẩm này thể hiện bằng phương pháp in lưới, bằng máy. Nhiều tác phẩm khác được thể hiện bằng phần mềm máy tính, in bằng máy. Nhiều tác phẩm gắn cả "vật thật" như báo chí, lon bia, chai lọ... lên tranh. Một số bức họa đắt giá nhất của trường phái này vốn là minh họa cho truyện tranh.

12. Trường phái Op Art
 
Tranh của Victor Vasarely

Sự ra đời của trường phái này được gắn với tạp chí Time. Vào năm 1964, tạp chí này đã đăng một bài báo nói về một làn sóng nghệ thuật mới liên quan đến ảo giác.

13. Trường phái Minimalism
 
Tranh của Frank Stella
Trường phái này nhận được rất nhiều sự chỉ trích từ công chúng vì họ khó có thể chấp nhận được một dãy hình lập phương, hai hình chữ nhật đặt cạnh nhau hay năm khối hình hộp treo trên tường lại có thể được gọi là nghệ thuật. Đơn giản hóa mọi thứ tối đa, kiệm lời là đặc điểm của trường phái Minimalism.

14: Trường phái nghệ thuật nhận thức
Tranh của Lucio Fontana

Chính trường phái này đã chấm dứt kỷ nguyên được gọi là "nghệ thuật hiên đại". Ngày nay, trường phái hậu hiện đại, tân hiện đại và nghệ thuật nhận diên đã chiếm ưu thế trong thị trường nghệ thuật. Các nghệ sỹ của ngày hôm nay không còn là một phần của nguồn nghệ thuật tập thể nhưng họ đã đào sâu những xu hướng và ý tưởng mới thay đổi từ năm này sang năm khác.

Trường phái nghệ thuật nhận thức này đã giúp chúng ta đem lại độc lập, và trong một khía cạnh nào đó nó đã hoàn thành một kỷ nguyên với những tư tưởng nghệ thuật mới, mà khởi đầu là từ trường phái ấn tượng cách đây 100 năm.

Các trường phái hội họa khác

Gần gũi nhất với chúng ta ở Châu Á, có thể nói đến các trường phái Thư pháp, Thủy Mặc của Trung Quốc, cũng có sức ảnh hưởng rất lớn tới các quốc gia trong khu vực, và trở thành hiện tượng mới làm ảnh hưởng sang cả Châu Âu, Châu Mỹ.

Kết

Mỗi trường phái hội họa đều có quan điểm riêng về cái đẹp, quyết định riêng việc lựa chọn đề tài, phương cách vận dụng ngôn ngữ tạo hình và xử lý kỹ thuật chất liệu riêng để đạt hiệu quả mong muốn. Xã hội càng phát triển, nhận thức của con người càng cao thì các trường phái hội họa càng lớn mạnh, càng xuất hiện nhiều trường phái mới.

(Thu thập từ nhiều nguồn Internet)

Những kiệt tác khỏa thân đắt nhất mọi thời đại



Những bức họa nổi tiếng về chân dung và hình thể của con người vẫn được lưu giữ và truyền tay nhau từ hàng ngàn năm nay. Tranh khỏa thân là một loại hình nghệ thuật không chỉ rất hấp dẫn, thu hút sự quan tâm của những người yêu nghệ thuật mà còn được đấu giá rất cao.

Sau đây là 10 kiệt tác hội họa khỏa thân được bán với giá đắt nhất trong lịch sử mỹ thuật thế giới:

1. Nude in a Black Armchair
Tác giả: danh họa Pablo Picasso
Trị giá: 45,1 triệu USD
Bức tranh mang tên “khỏa thân trên ghế bành đen” này của danh họa Picasso được bán với giá 45,1 triệu USD, mức giá cao kỷ lục mà chưa một họa phẩm cùng thể loại nào từng vượt qua được. Picasso vẽ bức tranh này từ năm 1932 và cho tới nay, có vẫn được lưu truyền như một trong những bức tranh quý giá nhất của ông.

2. Study of Nude with Figure in a Mirror
Tác giả: danh họa Francis Bacon.
Trị giá: 39,7 triệu USD
Sau khi ra đời vào năm 1992, bức tranh này chỉ được bán với giá 1 triệu USD. Tuy nhiên, chỉ sau vài năm, giá trị của tác phẩm đã leo thang với tốc độ chóng mặt và làm cho Francis Bacon trở thành một trong những họa sĩ được săn lùng nhiều nhất thế giới cũng như làm cho các tác phẩm khác của ông trở nên có giá trị hơn.

3. Benefits Supervisor Sleeping
Tác giả: danh họa Lucien Freud.
Trị giá: 33,6 triệu USD.
Được ra đời năm 1995, tác phẩm này được các nhà phê bình nghệ thuật bình chọn là tác phẩm tuyệt nhất của Lucien Freud từ những năm 1990. Đây chỉ là môt bức vẽ giản đơn về một phụ nữ nằm tựa trên ghế sofa. Điểm thú vị ở đây là cô chẳng có vẻ gì là đẹp đối với quan niệm hiện đại về cái đẹp cả. Đây là tác phẩm quý giá nhất của họa sĩ Freud, một trong những họa sĩ có ảnh hưởng nhất của thế kỷ.

4. Les Femmes d’Alger (O)
Tác giả: danh họa Pablo Picasso.
Trị giá: 32 triệu USD
Thêm một kiệt tác của Picasso nữa. Đây là tác phẩm ra đời trước tác phẩm “Nu au Collier” của ông. Bản phóng tác “O” của kiệt tác Les Femmes d’Alger có giá trị nhất trong loạt tác phẩm này. Tác phẩm này đã được bán vào năm 1997.

5. Nu Couche de Dos
Tác giả: danh họa Amedeo Modigliani
Trị giá: 26,9 triệu USD
Tại buổi bán đấu giá, mọi người cảm thấy hơi bất ngờ trước giá bán ra của tác phẩm. Đây là một tác phẩm tuyệt vời của Modigliani nhưng lại không phải là tác phẩm khỏa thân đắt nhất mọi thời đại.

6. Nu au Collier
Tác giả: danh họa Pablo Picasso.
Trị giá: 24 triệu USD.
Kiệt tác này được đấu giá vào năm 2002. Có lẽ do công chúng không biết đến sự có mặt của nó trong thời gian khá dài đã làm cho kiệt tác này có giá trị cao như vậy, và chứng tỏ người ta ao ước sở hữu các tác phẩm của Picasso đến như thế nào. Tác phẩm này được ra đời vào những năm 1930, là lúc ông và bà Marie-Therese Walters yêu nhau say đắm. Hai người sống ẩn dật trong một tòa lâu đài. Chủ đề của kiệt tác này là nhấn mạnh vào đường cong nữ tính, và thể hiện tình yêu sâu sắc đối với người phụ nữ ông yêu.

7. Naked Portrait with Reflection
Tác giả: danh họa Lucien Freud.
Trị giá: 23,5 triệu USD.
Bức họa “Naked Portrait with Reflection” được ra đời vào năm 1980, là một bức tranh sơn dầu và được xếp vào dòng tranh hiện thực Phục Hưng. Từ “reflection” trong tên của bức họa minh họa cho chân của một người đàn ông đằng sau ghế sofa. Có ý kiến cho rằng đó chính là tác giả.

8. Eve, grand modele-version sans rocher
Tác giả: nhà điêu khắc Auguste Rodin
Trị giá: 18,97 triệu USD.
Đây là bức tượng do một trong những nhà điêu khắc nổi tiếng nhất mọi thời đại, Auguste Rodin, sáng tác. Mặc dù được mệnh danh là cha đẻ của ngành điêu khắc hiện đại nhưng các tác phẩm của Rodin vẫn bị các nhà điêu khắc đương thời chỉ trích. Eve là nỗ lực đầu tiên của ông tạo ra một người mẫu nữ cỡ lớn để sánh vai bên tác phẩm điêu khắc Adam của ông cho dù là nó chưa bao giờ được hoàn thành. Tuy vậy, tác phẩm điêu khắc này vẫn có giá trị cao ngất ngưởng là 19 triệu USD.

9. Les Femmes d’Alger (J)
Tác giả: danh họa Pablo Picasso.
Trị giá: 18,6 triệu USD.
Les Femmes d’Alger (J) của Picasso đứng ở vị trí tiếp theo trong danh sách này. Thật thú vị là ông cũng đã tạo ra rất nhiều bản phóng tác của tác phẩm này. Và bản phóng tác mang “J” đã là bản có giá trị thứ 2 sau bản (O), được bán với giá 18,6 triệu USD vào năm 2005.
Nó chứa đựng rất nhiều đặc điểm về tác phẩm của Picasso với tư cách là một họa sĩ lập thể. Bức họa này được vẽ lại vào năm 1955 và được gợi cảm hứng từ tác phẩm “Women of Algiers in their Apartment” ra đời năm 1855 bởi danh họa Eugene Delacroix.

10. Nu assis sur un divan (la belle Romaine)
Tác giả: danh họa Amedeo Modigliani.
Trị giá: 16,77 triệu USD.
Amedeo Modigliani là môt họa sĩ người Ý, gốc Do Thái. Ông sống một cuộc sống chật vật: nghiện ma túy, nghiện rượu, đói nghèo và chết sớm. Trong cuộc đời 35 năm ngắn ngủi của mình, ông đã sáng tác những tác phẩm nghệ thuật đáng ao ước.
Bức tranh này được ra đời vào năm 1919, vẽ về một phụ nữ chỉ khoác trên người một mảnh vải mỏng. Phong cách của ông là độc nhất vô nhị và rất khó phân loại, mặc dù có một vài ý kiến cho rằng ông cũng bị ảnh hưởng bởi phong cách của Toulouse-Lautrec và Cezanne. Bức tranh này được đấu giá vào năm 1999.

(Theo VTC)